Sunday, December 31, 2000

Điều trị suy tĩnh mạch mạn tính

Các triệu chứng suy tĩnh mạch thường gặp nhất trong giai đoạn đầu là phù 2 chi dưới đi kèm với cảm giác nặng, chuột rút về ban đêm, triệu chứng này sẽ bớt lúc bệnh nhân kê chân cao buổi tối lúc đi ngủ. Về sau, các triệu chứng nặng dần và có hiện tượng các mảng rối loạn dinh dưỡng trên da và các tĩnh mạch giãn dần, nổi ngoằn ngoèo, có thể có những đợt viêm tắc tĩnh mạch với các triệu chứng nhiễm trùng toàn thân như sốt cao, môi khô lưỡi dơ và ở chỗ tĩnh mạch bị viêm đỏ, bên trong lòng xuất hiện những cục thuyên tắc cứng…

Các nhân tố nguy cơ

Trên thực tế không phải người nào cũng có khả năng bị bệnh này, duy nhất 1 số người thuộc nhóm có nguy cơ cao là hay bị. Di truyền là mẫu số chung cho những bệnh nhân này, trong thực hành bệnh viện hàng ngày chúng tôi tiếp nhân thấy có một số người về di truyền dễ bị mắc bệnh hơn những người khác, nguyên do do những đánh tráo vào enzym trong mô liên kết. Nữ thường bị nhiều hơn nam do ảnh hưởng của nội tiết tố nữ, thai nghén lên thành tĩnh mạch, do phải đứng lâu trong 1 số ngành nghề nghề đặc biệt như: bán hàng, thợ dệt, do khối lượng cơ thấp hoặc dùng giày không thích hợp.

Tăng trọng quá mức cũng là một nhân tố nguy cơ vì lực tác động từ phía trước để hút máu về bị giảm và các dòng trào ngược ly tâm phát sinh do gia nâng cao áp lực từ ổ bụng.

Chủng tộc có ít nhiều ảnh hưởng đến bệnh này trừ lúc chúng được kết hợp với sự phát triển về kinh tế và thay đổi cách sống. Tại Pháp, cộng đồng người dân di cư tới từ các nước vùng bắc Phi rất hay bị bệnh giãn tĩnh mạch, rất nhiều họ đều là những người dân nghèo, sống trong những điều kiện vật chất thiếu kém và phải làm những việc nặng nhọc, đứng lâu, nhiệt độ cao tại vùng chân: nội trợ, giặt quần áo, thợ dệt, tài xế…

Thuốc ngừa thai do sử dụng nội tiết tố nên cũng là 1 yếu tố nguy cơ như thai nghén.

Phẫu thuật có thể gây ra biến chứng huyết khối tĩnh mạch và viêm tĩnh mạch nhất là những phẫu thuật vùng tiểu khung như phẫu thuật trong sản khoa và niệu khoa các thủ thuật khác như bó bột, bất động lâu trong gãy xương… Tuy nhiên, sắp đây tầm nhu yếu của nhân tố nguy cơ này đã giảm bớt.

Những bệnh ăn theo chính sách ăn kiêng nhiều chất bột, ít chất xơ hay bị táo bón cũng rất dễ bị giãn tĩnh mạch.

Chẩn đoán

Việc xác định chẩn đoán cốt yếu dựa về khám lâm sàng bao gồm nhìn thấy những đoạn tĩnh mạch bị giãn, ngoằn ngoèo, da đổi màu, rối loạn dinh dưỡng, loét và sự xuất hiện của các u máu.

Sờ để biết được độ cứng của phần mềm, nhất là là vùng trước xương chày, so sánh cả 2 bên. Ngoài ra, có thể sờ thấy cả 1 đoạn tĩnh mạch cứng, phù nề, các cục thuyên tắc và xác định nhiệt độ của da.

Với các thầy thuốc chuyên khoa có thể vận dụng 1 số thủ thuật để đánh mức giá tình trạng của các van tĩnh mạch hiển trong như: thủ thuật Schwarz, thủ thuật ho, thủ thuật Trendelenburg và thủ thuật Perthe.

Cuối cùng chẩn đoán được xác định bằng siêu âm Doppler màu mạch máu, với phương pháp này cho phép chúng ta xác định được những rối loạn huyết động học, tình trạng của các van tĩnh mạch, mức độ giãn của tĩnh mạch và các cục thuyên tắc trong lòng mạch để từ đó có thái độ điều trị đúng đắn.

Biến chứng của giãn tĩnh mạch

Trước tiên là các biến chứng về rối loạn huyết động học: cẳng chân bệnh nhân bị sưng to, có triệu chứng đau buốt mặt sau cẳng chân, chuột rút về đêm.

Nặng hơn, bệnh nhân có thể bị viêm tắc tĩnh mạch, chân nóng, sưng đỏ, các tĩnh mạch nông nổi rõ và viêm cứng.

Giai đoạn cuối cùng có thể diễn tiến đến tình trạng giãn lớn tất cả hệ tĩnh mạch, các tĩnh giãn rất lớn, ứ trệ tuần hoàn và rối loạn dinh dưỡng của da chân phía dưới gây viêm loét, nhiễm trùng rất khó điều trị.

Cục thuyên tắc có thể tách rời khỏi thành tĩnh mạch, đi vào tim và gây thuyên tắc động mạch phổi, 1 biến chứng rất nặng có thể đưa tới tử vong ví dụ không cấp cứu kịp thời.

Siêu âm Doppler màu tĩnh mạch là 1 xét nghiệm cho kết quả chẩn đoán chuẩn xác nhất

Điều trị

Các phương pháp điều trị chính nhằm kiểm soát hay chặn đứng sự trào ngược, gặt đi trào ngược từ các tĩnh mạch nhánh và từ các mạch nối, cuối cùng là ngăn ngừa sự tràn ngập mô kẽ do dịch thấm ra từ các vi quản.

Phòng ngừa: phương pháp này nhằm chặn đứng sự trào ngược và làm cho các lực tác động lên dòng chảy của tĩnh mạch được rất tốt hơn. Bao gồm: để chân cao khi nằm nghỉ, tập cơ mạnh hơn, tránh đứng hay ngồi lâu, mang vớ thun hay quấn chân bằng băng thun, sửa lại vị trí bàn chân đối với các dị tật, tránh béo phì, tập hít thở sâu, ăn chính sách có rất nhiều chất xơ để tránh táo bón…

Băng ép: nhằm phục hồi áp suất chênh lệch giữa hai hệ thống tĩnh mạch nông và sâu thông qua hệ thống xuyên, giảm đường kính của lòng tĩnh mạch để nâng cao khả năng vận chuyển lúc nghỉ ngơi cũng như khi gắng sức.

Điều trị nội khoa: với các thuốc làm bền thành mạch như: Daflon, Rutin C, Veinamitol… nhưng phần lớn chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh mạch. Một số thầy thuốc chuyên khoa còn vận dụng phương pháp tiêm gây xơ ở chỗ với các thuốc làm xơ hóa lòng mạch máu.

Phẫu thuật: với 2 phương pháp chính: lấy bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn gọi là phương pháp Stripping bằng 1 dụng cụ chuyên sử dụng cho phép rút các tĩnh mạch như chúng ta làm lòng gà và phương pháp Chivas lấy các đoạn tĩnh mạch bị giãn của hệ thống xuyên, đây là phương pháp điều trị khá triệt để có tỉ lệ tái phát thấp nhất.

Ngoài ra, bây giờ người ta còn vận dụng phương pháp làm lạnh với nitơ lỏng âm 900C để làm nghẹt lòng tĩnh mạch qua một ống thông trong lòng tĩnh mạch, bên cạnh đó phương pháp này cho tỉ lệ tái phát khá cao tới 30% các trường hợp.

Việc điều trị bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới đòi hỏi sự kết hợp giữa sử dụng thuốc, phẫu thuật và tập vật lý trị liệu ở các trung tâm chuyên sâu vào bệnh này như BV. Đại học Y Dược TP.HCM, các khoa phẫu thuật mạch máu tại 1 số bệnh viện lớn khác.

Cần phải phát hiện sớm

Muốn điều trị có kết quả, phải phát hiện sớm bệnh lúc mà suy tĩnh mạch còn ở giai đoạn 1 - 2. Việc phát hiện ra bệnh sớm, không chỉ hoàn toàn dưạ vào người thầy thuốc mà mỗi người trong chúng ta phải tự mình tìm hiểu cơ thể mình để xem có bị bệnh suy giãn tĩnh mạch hay không?

Các triệu chứng sớm cũa bệnh suy tĩnh mạch mạn tính thường:

- Mỏi chân, đặc biệt lúc đi lại hay đứng nhiều.

- Sưng phù mắt cá chân: phù xung quanh mắt cá và thấy rõ vào buổi tối. Khi thấy sưng phù, có thể bạn đã bị dãn tĩnh mạch với biểu hiện là các đường gân xanh nổi ngoằn nghoèo trên da.

- Chuột rút về đêm.

- Cảm giác như có kiến bò và ngứa chân.

Khi có các dấu hiệu trên, bản thân chúng ta hay chúng ta phải hỗ trợ tư vấn cho những người có các triệu chứng tương tự cần đi khám tại một bác sĩ chuyên khoa về tĩnh mạch học để được cho làm siêu âm Doppler màu tĩnh mạch vì đây là 1 xét nghiệm về chẩn đoán hình ảnh căn bản cho kết quả chẩn đoán chính xác nhất.

Phòng bệnh giãn tĩnh mạch bằng các phương pháp rất đơn thuần như tránh béo phì, tránh đứng lâu, tránh táo bón và làm nâng cao sức bền của thành mạch máu bằng tập thể dục, ăn các thức ăn giàu vitamin nhiều chất xơ…

PGS.TS. NGUYỄN HOÀI NAM

(Cố vấn BV. Quốc tế Minh Anh)

0 comments:

Post a Comment